Hai nhóm dân tộc Thái từ Mai Châu, Hòa Bình và Quỳ Châu, Nghệ An. Cả hai nhóm này đều có truyền thống dệt vải lâu đời, nhưng mỗi nhóm lại có nét đặc sắc riêng. Người Thái ở Mai Châu thường dệt các tấm có hoa văn hình học với bố cục và cách phối màu mang hơi thở hiện đại, còn người Thái ở Quỳ Châu lại rất giỏi trong việc kết các hoa văn cầu kỳ, tình xảo.
Họa tiết này mô phỏng gai của một cây gần giống cây cọ nhưng quả bé hơn quả cọ và ăn được chứ không chát như quả cọ. Thân cây này được dùng làm máng nuôi gia súc. Lá cây dùng làm chổi chứ không để lợp nhà như lá cọ.
Tương tự như cây tre, cây mây là một trong những loại nguyên liệu ngoài gỗ được sử dụng rộng rãi nhất để làm các vật dụng gia đình. Cây mây thích nghi được với mọi điều kiện sống, có thể sống thành bụi trong rừng hoặc trong vườn nhà với sự chăm sóc của con người. Hoa mây nổi tiếng bởi vẻ đẹp của nó. Hoa văn này dược dệt lặp lại để làm họa tiết trang trí và thêm màu sắc cho vải thổ cẩm.
Đây là một loại hoa rất đẹp thường mọc ở trong rừng quanh bản của người Thái. Nhìn thấy hoa đẹp, các cô gái Thái đã chuyển thể thành một loại hoa văn rất phổ biến trên thổ cẩm của họ.
Người Thái đặt tên “Clom” cho một loại quả rừng nhỏ như quả nhót nhưng vỏ ráp và thân có rãnh giống quả mướp đắng. Các cô gái Thái đã chuyển thể thành một loại hoa văn rất phổ biến trên thổ cẩm của họ.
Lài luông dịch ra từ tiếng địa phương có nghĩa là “hoa lớn”. Đây là một loại hoa văn tinh xảo và tốn nhiều thời gian để dệt, thường được dệt lên các tấm Lang Biang để làm vỏ chăn hoặc tấm trang trí.
Quả trám là một loại quả quen thuộc trong bữa ăn của các gia đình người Thái. Họ thường đi nhặt quả trám rụng trong rừng, mang về rửa sạch và luộc hay kho để ăn với cơm. Nhớ ơn loại quả nhỏ bé nhưng hữu ích này, người Thái dệt hoa văn quả trám lên thổ cẩm của mình.
Khung cảnh làng của người Thái tại Mai Châu rất đẹp với các ngọn núi bao phủ bởi cây xanh, cánh đồng rộng và nhà sàn dưới bóng dừa nhà sàn dưới bóng dừa. Hình ảnh hoa dừa đã trở nên quen thuộc với đời sống của người Thái và cũng là một loại hoa văn rất hay gặp trên thổ cẩm của người Thái.
Một gia đình rất nghèo không có gì cho con ăn. Khi con khóc đòi ăn, người mẹ nói con chờ mẹ đi nương, mót thóc xát lấy gạo nấu cơm cho con ăn. Người con chờ mãi, đến khi mẹ rửa xong gạo cho vào chõ đồ xôi thì người con vô tình nhúng tay vào chậu nước gạo. Chân tay người con bỗng mọc lông lá, người con biến thành khỉ chạy vào rừng, ở trên ngọn cây sấu chua không chịu xuống. Mẹ gọi về ăn cơm, con bảo con biến thành khỉ rồi, ăn quả rừng không thấy chua thấy ngứa, không về ăn cơm với cha mẹ nữa. Vì thương nhớ con, người mẹ dệt con khỉ để nhớ đến đứa con đã mất đi.
Khi trái đất mới hình thành, con người sống trong thiếu thốn, một mình đương đầu với thiên nhiên. Thấy vậy, ông trời phân công cho các loài vật xuống trần gian giúp con người. Ngựa nói rằng mình có sức khỏe phi thường, xin ông trời xuống hạ giới để chở con người và thồ lương thực, nguyện trung thành theo chủ đi khắp nẻo gần xa. Người Thái nhớ ơn nên dệt hình con ngựa trên tấm chăn và nền vọng làm tấm trang trí trong các ngày lễ tết.
Một loại hoa văn hay gặp trong thổ cẩm của người Thái, cả thêu và dệt. Con hươu tượng trưng cho sự tự do và trung thành. Có câu chuyện kể về một cậu bé nghèo chăm sóc con hươu, bảo vệ nó khỏi lão đồ tể gian ác. Cậu bé và con hươu trở thành bạn thân. Khi lớn lên, cậu bé được đón lên thành phố học, không kịp chào từ biệt hươu. Hươu lớn lên trở thành đầu đàn, kiêu hãnh với đôi sừng to đẹp. Một ngày nó ăn được một ít muối của những người đi làm rừng làm rơi và nhớ lại vị cơm nắm muối mà cậu bé mang lên nuôi nó. Hươu tìm về cái hang mà cậu bé từng giấu nó khi còn bé và chờ người bạn thơ ấu. Cậu bé giờ đã thành đạt và có gia đình, một ngày về thăm quê nhà, nhớ con hươu ngày nào nên lên cửa hang tìm. Hươu không thấy, chỉ thấy một cái cây thân như sừng hươu lá như tai hươu và có hoa trắng tinh khôi thơm ngát. Người dân ở đó bảo rằng có con hươu già về đây nằm chết; đúng chỗ nó nằm mọc lên cây đó – gọi là cây hoa Đại.
Người Thái hay kể cho nhau câu chuyện trời sai Tạo Lò Kăm xuống trần gây bản dựng mường. Tạo Lò Kăm vâng lệnh xuống trần, các con vật như trâu, ngựa xin xuống theo cùng để giúp đỡ. Trời hỏi sao lại xin xuống trần như thế, Trâu tâu trình “xin xuống trần để vai mang ách, chân giẫm ruộng trồng lúa, khi chủ mất xin được xả thân làm ma cho chủ”.
Trong truyền thuyết về các loài vật của người Thái, con rùa chậm chạp nhưng thông minh, nhiều phép và giỏi tiên tri nhất trong các con vật. Con rùa dạy người cách tế thần trên trời. Truyện kể rằng từ thuở khai thiên lập địa khi người Thái tìm cách xây nhà ổn định cuộc sống có một con rùa ngoi lên từ sông và mách “các ông cứ làm mái hồi như cái mai của tôi, làm như vậy sẽ lâu hỏng và không bị dột”. Người Thái nhớ ơn rùa, xây nhà theo mai rùa và người Thái còn treo mai rùa lên sâu hẹ (cột thiêng) đối diện bàn thờ tổ tiên. Cũng có câu chuyện kể rằng trong một lần lên thiên đình tâu bẩu, con rùa dẫn cả đoàn đi chậm nói chậm quá, bị các con vật khác lật ngửa và vùi dưới đống lá cỏ ở dưới đất. Con gà trông thấy bèn dùng chân đào đất để giúp con rùa đứng dậy. Để cảm tạ ơn cứu mạng của con gà, con rùa ban phép để cho chân gà có thể dự báo điềm lành điềm dở. Vì thế, người Thái có tục treo chân gà gác bếp để dự báo điềm may rủi trong năm.
Hoa văn con voi có xuất xứ từ Lào, còn được gọi là Đất nước Triệu Voi. Người Thái Mai Châu đã biết dệt họa tiết này từ rất lâu. Người dân địa phương thường gắn ý nghĩa của hoa văn này với câu chuyện Hai Bà Trưng khởi nghĩa chống quân Hán (Trung Quốc) vào năm 43 sau công nguyên, qua đó ca ngợi tinh thần yêu nước, chống giặc ngoại xâm.
Ngày xưa có đôi vợ chồng nhà nông nghèo mà hiếm con. Một hôm người vợ ra suối xúc cá, đi cả buổi không được con cá nào mà xúc lần nào cũng chỉ được một quả trứng như trứng vịt. Sau khi bà nhặt quả trứng lên, bao nhiêu cá thi nhau bơi về. Bà mang trứng về cho gà ấp, sáng hôm sau trứng nở ra một con rồng nhỏ. Bà thả nó vào cối giã gạo. Nước bỗng dâng lên ngập cối nên ông chồng phải mang rồng con ra ngoài suối thả, nhưng nó không ở mà cứ đi theo ông về nhà. Từ đó, cứ mỗi lần ông đi đâu là nó đi theo. Ông bà thương nó, gọi nó là con. Một hôm, ông đang khai hoang ruộng, vô tình cuốc phải đuôi làm nó bị cụt đuôi. Khi giặc đến xâm lược, rồng xin bố mẹ cho đi đánh giặc. Dù rất thương con nhưng vì đất nước, ông bà vẫn cho “con” đi. Khi đi, nó dặn rằng không được nhắc tên nó nhưng bố mẹ nhớ quá vẫn nhắc. Giặc biết được bèn bắt và đánh chết rồng. Người bố thương, bèn đóng quan tài và mang về Mai Châu chôn cất. Từ đó, cứ đến mùa nước to, nó muốn báo hiếu cha mẹ nên gửi hàng đàn cá lớn về. Người Thái Mai Châu lưu truyền câu chuyện này và dệt hoa văn con rồng cụt đuôi.
Theo truyền thuyết của người Thái, vào kỷ nguyên thứ 8, khi loài người bắn hạ tám mặt trời và mặt trời thứ chín đi trốn, con người sống trong tăm tối. Họ phải gửi con vịt cõng con gà đi gọi mặt trời về. Để nhớ ơn con vịt đã cõng con gà đi gọi mặt trời, người Thái dệt hoa văn con vịt lên thổ cẩm của họ.
Ngày xưa có gia đình dòng họ Hà Công sinh được ba người con trai. Khi các con trưởng thành, bố mẹ muốn ba anh em cai quản ba đất nước. Người anh cả cai quản Thái Lan, người anh thứ nhì thì ở Lào, người em út thì sang Việt Nam. Nhưng cả ba anh em đi tìm chỗ để cho người em út lập chiềng thì đến ngã ba Tông Đậu, cả ba anh em phân vân không biết cho em út ở đâu thì thấy một đàn chim bay về hướng Mai Châu nên ba anh em bàn nhau chắc là ở đây đất lành chim đậu. Người em út đã sinh cơ lập nghiệp ở Mai Châu. Nhờ công của đàn chim mà người em út đã tìm được đất Mai Châu, nên từ đó các chị em dệt hình ảnh con chim lên thổ cẩm để nhớ ơn.
Các thầy cúng người Thái dùng chân gà để đoán điềm lành dở. Tục lệ này bắt nguồn từ câu chuyện như sau: Trong truyền thuyết về các loài vật của người Thái, con rùa chậm chạp nhưng thông minh, nhiều phép và giỏi tiên tri nhất trong các con vật. Trong một lần lên thiên đình tâu bẩu, con rùa dẫn cả đoàn đi chậm nói chậm quá, bị các con vật khác lật ngửa và vùi dưới đống lá cỏ ở dưới đất. Con gà trông thấy bèn dùng chân đào đất để giúp con rùa đứng dậy. Để cảm tạ ơn cứu mạng của con gà, con rùa ban phép để cho chân gà có thể dự báo điềm lành điềm dở.
Người Thái cứ đến mùa vụ là làm cơm để cúng tổ tiên. Truyện kể rằng một gia đình tối đến bàn với nhau mai giết gà làm cơm mới. Gà mẹ nghe thấy và nói với đàn con, rằng mong mãi mới đến ngày mùa để nhặt ăn thóc rơi thóc vãi thế mà con người lại sắp thịt mẹ. Nói xong gà mẹ gà con ôm nhau khóc. Con người thấy vậy động lòng quyết định không thịt gà nữa. Nghĩ đến con các có thể thay thế con gà, nên cứ vụ mùa người Thái đồ xôi và đồ cá để cúng tổ tiên.
Mỗi khi mùa xuân về, các đôi trai gái rủ nhau đi chơi xuân ngắm cảnh. Nhìn thấy những đàn bướm bay lượn rất đẹp, tối về các cô gái ngồi vào khung cửi và dệt tấm khăn có hình đôi bướm đang bay lượn để hôm sau quàng vào cổ cho người yêu. Từ đó hình ảnh con bướm luôn xuất hiện trên tấm khăn thổ cẩm của người Thái Mai Châu.
Cứ năm hết tết đến, để đón mùa xuân mới, nhà nào cũng treo một boọc khoáy, 1 cục than củi và ba ngọn lá từ bi để xua đuổi tà ma. Boọc khoáy được làm từ 4 thanh tre buộc lại bằng dây mây. Boọc khoáy treo lên vào mùa xuân và được người Thái Mai Châu giữ lại quanh năm để cầu cho điềm lành đến với gia đình mình.
Khi người con gái Thái ở Hòa Bình đi lấy chồng, của hồi môn mang theo bao gồm 4 tấm đệm nằm, 4 chăn, 20 cái gối và 4 cái đệm ngồi bông lau, cùng với rất nhiều vải thổ cẩm mà gia đình nhà gái chuẩn bị từ khi cô gái đến tuổi 12. Tất cả của hồi môn này được đặt vào một cái bế bằng mây (cờ bém) có nắp và khóa, vòng qua miệng một chiếc đai vải dài để đeo lên đầu khi người con gái đi về nhà chồng. Những của hồi môn này được cô gái cất giữ, khoá lại trong cái hòm này và chỉ mang ra khi có khách hoặc trong các dịp quan trọng của gia đình. Hoa văn khóa hòm mô phỏng cái khóa của cái bế đựng của cải bố mẹ cho người con gái Thái về nhà chồng.
Một nhà có hai chị em gái một hôm ra suối bắt cá và tìm thấy một quả sung chín. Họ chia đôi quả sung ăn. Hai chị em bỗng có thai, chị sinh được con trai, em sinh được con gái. Cha mẹ sợ mang tai tiếng, cho hai đứa trẻ lên hai bè cho trôi sông. Ở cuối nguồn nước, có một bà hiếm con nhặt được mang về nuôi. Bé gái càng lớn càng xinh đẹp, bé trai càng lớn càng khôi ngô, tuấn tú. Ông bà nuôi gọi chàng trai là Tạo Hún Lu, người con gái là Nàng Uà Piểm. Khi Tạo và Nàng lớn, ông bà nuôi kể cho hai người biết họ đã nhặt được hai người như thế nào. Tạo và Nàng liền xin phép đi ngược theo dòng sông để tìm lại cha mẹ. Ông bà ưng thuận. Hai người đi hết ngày này qua ngày khác, trên chặng đường nảy sinh tình cảm. Khi tìm được về nhà mẹ, hai người xin mẹ cho lấy nhau. Mẹ Nàng thấy không ngăn cản được tình yêu của hai người, mới đồng ý và sai đôi trẻ vào rừng kiếm nấm và cá cho lễ cưới. Vừa đi đến bìa rừng, trời đất tối sầm, sấm sét rạch đôi bầu trời, chia tách hai người ra hai phía, Tạo bị bắn về phía Đông biến thành Mặt Trời; Nàng bị bắn về phía Tây, biến thành Mặt Trăng. Hàng tháng, Tạo và Nàng phải đợi đến cuối tháng, lúc mặt trời mọc lên còn nhìn thấy mặt trăng lặn muộn ở đằng Tây, hai người từ hai phía chân trời nhìn nhau, chỉ còn biết khóc, nước mắt đầm đìa nhỏ xuống trần gian thành những trận mưa cuối tháng.
Là con rồng có 2 đầu nhưng chung 1 ruột, ý nói về tình yêu của 2 con rồng, chúng không thể tách rời nhau vì chung cùng 1 ruột, tình yêu của họ quấn quýt lấy nhau (hay còn gọi là rồng hạnh phúc) khi con gái về nhà chồng sẽ được cha mẹ cho những chiếc váy thêu bằng con rồng, mong cho hai con sống hạnh phúc bên nhau.
Có một gia đình sinh được một đứa con trai, sau đó bố mẹ chết đi để lại con cho người chú ruột nuôi. Hai chú cháu rất thương yêu và bao bọc lẫn nhau. Năm ấy mất mùa, hai chú cháu lâm vào cảnh đói nghèo đành phải sang nhà giàu để xin ăn. Nhà giàu không cho cơm, bảo là chó ăn hết rồi. Cháu chợt nhìn thấy trên lông chó còn dính một hạt cơm chín, nhặt lấy cho vào miệng thì lạ thay cảm thấy khỏe và tỉnh táo lại. Người cháu bèn nhả ra cho chú ngậm hạt cơm, người chú cũng thấy khỏe lại. Hai chú cháu thay nhau ngậm hạt cơm. Đến lượt cuối cùng người cháu ngậm thì chẳng may trôi xuống bụng. Người chú đói quá mà chết đi. Người cháu thương chú quá, khóc nhiều mà hóa thành con tu hú, cứ mỗi vụ mùa lại khắc khoải gọi chú về ăn đến hết cả hơi.
Có một đôi vợ chồng đi xúc tép, xúc mãi không được gì, chỉ được quả trứng. Họ mang về cho gà ấp, sau nở ra con rồng nhỏ. Ông bà thấy lạ, thả nó vào cái cối giã gạo với nước cho nó sống. Hằng ngày, rồng con cứ đi theo ông bà ra ruộng. Một hôm ông vô tình cuốc phải đuôi nó, thế là gọi nó là chàng cụt (táo đuôn), máu chảy từ đuôi thành con cá đì. Khi rồng lớn quá, ông bà đành thả nó ra sông. Rồng quay lại nói khi nào muốn nhìn thấy con thì trời mưa con sẽ hiện bóng lên trời thành dải cầu vồng. Vì vậy, trong tiếng Thái, cầu vồng được gọi là “ngược húng” và con rồng được gọi là “tô ngược”. Người lớn thường bảo trẻ nhỏ nếu con thấy ngược húng (tô ngược) thì chỉ được nhìn thôi, không được chỉ mà bị phạt cụt tay.
Truyện kể rằng khi xưa có một người Thái đi vào rừng khai hoang mở đất. Người đó cứ đi sâu mãi vào rừng đến khi bị lạc, không có gì ăn. Người đó kiệt sức và đói quá, đành ngồi tựa ở gốc cây san. Bỗng có quả san rụng xuống, người đó nhặt lên ăn, nhờ đó mà có sức lựa trở lại. Để ghi nhớ loại quả đã cứu sống tổ tiên của mình từ thuở khai hoang lập địa, người Thái dệt bộc san lên vải vóc của họ.
Cây mướp là một loại cây quen thuộc trong vườn của người Thái. Họ thường cho lá mướp vào nấu cùng canh măng cho thơm. Với trí tưởng tượng phong phú, các thợ dệt từ cổ xưa đã biến cái cây, chiếc lá rất đời thường thành một loại hoa văn quen thuộc trên vải thổ cẩm.
Tương tự như hình dáng của hoa văn con gà, nhưng hoa văn con chim thường có đuôi thẳng, kéo vút lên chứ không xòe ra như hoa văn con gà.
Trong gia đình người Thái, hầu như nhà nào cũng có con gà con vịt. Quan sát thấy con gà hàng sáng gáy lúc bình minh, người Thái truyền tai nhau về câu chuyện cổ về con gà cưỡi trên lưng con vịt đi gọi mặt trời về, xóa đi tăm tối và mang lại sự sống cho trái đất. Các thợ dệt người Thái hay thêu con gà lên thổ cẩm; tuy các hoa văn này có nhiều điểm chung về kết cấu và hình dáng nhưng sự tồn tại của nhiều dị bản khác nhau của cùng một hoa văn thể hiện trí tưởng tượng phong phú và sự khéo léo của người dệt.
Ngày xưa khi người Thái còn nghèo khổ, đi làm rẫy phải tỉa bí để ăn. Người Thái thêu hoa văn dàn bí để không quên loại thức ăn này.
Hình ảnh vết chân chim trên bờ ruộng là một hình ảnh rất quen thuộc với người Thái vì họ sống dựa chủ yếu vào trồng lúa. Các cô gái Thái ngày đi làm ruộng tối về dệt vải, đã biến hình ảnh rất bình thường này thành một loại hoa văn.
Họa tiết người cưỡi voi được truyền cảm hứng từ câu chuyện chống giặc ngoại xâm của hai người nữ tướng huyền thoại Trưng Trắc, Trưng Nhị. Với người Thái, họa tiết này là biểu tượng cho lòng yêu nước và sức mạnh của dân tộc.
Trong văn hóa của người Thái, voi là một loại động vật biểu trưng cho sức khỏe và sự mạnh mẽ. Các bà mẹ người Thái thêu hình voi con lên những tấm chăn, cổ mamnf với mong muốn con mình có sức mạnh như voi.
Con vật này là loài vật to nhất trong các loài động vật sống trong rừng, nó có sức mạnh phi thường, sống tập trung thành bày đàn thể hiện tình đoàn kết và đùm bọc lẫn nhau. Dân gian thường quan niệm rằng khi ốm đau nếu nín thở chui qua phía dưới bụng con voi ba lần thì sẽ xua đuổi được tà ma và chóng khỏi bệnh tật.
Trong truyện cổ tích của người Thái, con Cóc được coi là cậu ông trời. Mỗi khi con cóc tặc lưỡi là trời sẽ gây mưa. Người Thái sống chủ yếu dựa vào việc đồng áng; họ tôn thờ con cóc để nó cầu mưa cho việc đồng áng được thuận lợi.
Loại cua mà người Thái hay nói đến là cua đồng, sống chui rúc trong đất ruộng. Chỉ là một loài vật nhỏ bé sống trong bùn lầy, con cua không có câu chuyện cổ tích nào kể về nó. Tuy nhiên, người thợ dệt Thái một lần nữa thể hiện tình yêu thiên nhiên, trí trưởng tượng phong phú và bàn tay khéo léo để biến một con vật bình thường nhất thành một loại hoa văn tinh xảo.
Người Thái tin rằng trên trời có một ao cá vía, mỗi con cá trong đó mang theo hồn vía của một người dưới trần. Khi con cá trên trời khỏe mạnh, người dưới trần cũng khỏe mạnh. Khi một con cá ốm yếu và chết đi đồng nghĩa với việc con người mang hồn vía đó ở dưới trần cũng ốm yếu mà chết đi.
Một mô típ rất quen thuộc trên thổ cẩm của người Thái, nhưng người dân địa phương có nhiều cách giải thích khác nhau cho hoa văn này. Phổ biến nhất là cái tên “cượp hên” nghĩa là vỏ hến. Con hến là một loài động vật quen thuộc trong cuộc sống của người Thái, cũng là một loại thức ăn thường nhật với người nông dân. Dù là cách giải thích nào thì hoa văn này cũng thể hiện sự sáng tạo của những người thợ dệt xưa khi biến những họa tiết thường nhật, tưởng như không có gì đặc sắc, thành các hoa văn đối xứng đầy tính thẩm mỹ.
Ngày xưa khi chưa có điện, người Thái thường dùng đèn dầu để thắp sáng. Vào những ngày mưa gió thì ngọn đèn hay bị gió thổi tắt đi. Sau đó người ta nghĩ ra cách dùng lồng đèn để cản gió cho ngọn lửa bên trong. Người Thái đã biến đồ vật rất bình thường này thành hoa văn trên vải.
Ngày xưa lồng đền được treo trước nhà quan lại và những người giàu có. Trong khi đó, dân nghèo chỉ mơ ước có cơm ăn hàng ngày, có mái nhà che nắng che mưa là được. Với người Thái xưa, lồng đèn là biểu tượng của giàu sang phú quý. Họ thêu lồng đèn để mong sau này các con cháu sẽ được giàu sang quyền quý, được ở trong những ngôi nhà có lồng đèn treo trước cửa.
Can pía được làm bằng gỗ và sử dụng để cuốn sợi trong bước đầu tiên của quá trình chuẩn bị sợi. Sợi chỉ tháo từ can pía ra mới được chuội mềm bằng nước tro, nhuộm, đưa lên xa quay sợi và đánh vào ống chỉ để dệt hoặc thêu. Người Thái vẫn tuyền tai nhau câu chuyện về một đôi trai gái yêu nhau và đã hứa hẹn suốt đời suốt kiếp luôn sống bên nhau. Câu chuyện này có câu ca, rằng ai cượt pén pía xì nòng cượt pến đai, nghĩa là anh hóa thành can pía còn em hóa thành sợi tơ.
Theo truyền thuyết “Xuống mường hạ giới” của người Thái, vào kỷ nguyên thứ sáu, trời sai hai ông bà Tạo Vi xuống trần trồng cây cối, trồng song mây. Hai ông bà chết đi, con cháu lười nhác không chịu khai ruộng, suốt ngày chỉ đan lưới, làm bẫy săn bắt chim, cá, thú rừng về ăn. Chim quý Áng Vanh của Trời xuống trần mắc phải bẫy, Trời nổi giận làm ra chín mặt trời thiêu đốt dương gian. Người trần không chịu nổi, bàn nhau làm ná, làm cung tên bắn rụng tám mặt trời. Còn lại một mặt trời sống sốt trốn xuống biển nấp. Mặt đất trở nên tối tăm. Con người bàn nhau cử Gà và Vịt đi tìm gọi Mặt trời, mặt đất mới sáng trở lại.
Một nhà rất nghèo lại đông con, vì không có gì cho con ăn, người mẹ đành bảo các con vào rừng tự kiếm ăn. Để các con không bị lạc nhau, người mẹ lấy một sợi bông để buộc các con vào. Các con vào rừng kiếm ăn và biến thành khỉ không quay về nhà nữa. Sau này khi có đủ ăn rồi, con cháu người Thái dệt hình đàn khỉ leo đá để nhớ đến thời cơ hàn.
Người Thái có câu chuyện về cô gái xinh đẹp tên là Ban yêu một chàng trai nghèo tên là Khum. Bố của Ban, vì hám của nên hứa gả con cho một lão giàu có trong làng. Ban nghe tin vội chạy trốn đến nhà Khum để tìm nơi nương náu. Chẳng may Khum và cha lại đi chợ xa bán trâu. Ban buộc khăn piêu vào cửa nhà Khum và chạy đi tìm chàng. Cô chạy qua không biết bao nhiêu núi rừng, cho đến khi kiệt sức nằm chết ở chân một ngọn núi. Về sau, ở nơi Ban yên nghỉ mọc lên một loại cây mà bông hoa trắng muốt tinh khiết như làn da của Ban; hình hoa cũng như bàn tay e ấp của người con gái đẹp này. Họ dệt hoa Ban lên thổ cẩm để tưởng nhớ một câu chuyện tình yêu đẹp nhưng buồn.
Cồng chiêng là những nhạc cụ không thể thiếu trong lễ hội của người Thái. Cồng chiêng được treo thành dãy dài và tạo ra âm thanh hài hòa cho các dịp lễ của làng.
Ngày xưa, ở Mường Miếng có 2 anh em rủ nhau ra khe tắm. Người anh mải tắm không để ý tới người em, mãi sau quay ra tìm em thì không thấy em đâu, bỗng dưng có tiếng hét to “cứu em với… cứu em với…”. Người anh vôi lên bờ chạy theo dấu chân em nhưng không thấy em đâu. Đến một đoạn thì dấu chân của người em cũng biến mất. Về sau, nơi dấu chân của em ngừng mọc lên một cây to. Lạ thay, cả cây chỉ có một bông hoa. Vì thương tiếc em, người anh ngày ngày ra gốc cây trông và cấm không cho bất cứ ai hái bông hoa đó. Cái tên hoa cấm từ đó mà ra. Không ai biết hình dáng thật sự của bông hoa này thế nào, chỉ biết đến nó qua họa tiết thổ cẩm.
Những thợ dệt lâu năm gọi đây là hoa trám, mặc dù không ai biết gốc gác của họa tiết này là từ hoa của giống trám nào. Chỉ biết rằng họa tiết này được mô phỏng từ một loài hoa trám có màu trắng, nhiều cánh, nở vào tầm tháng hai tháng 3. Cũng như nhiều loại họa tiết bắt nguồn từ cây cỏ, các đời thợ dệt người Thái truyền cho nhau cách dệt loại hoa văn này để trang trí gấu váy.
Đây là một loại cây rừng đã cứu đói người Thái xưa qua những ngày đói nghèo. Truyện dân gian kể rằng người Thái cổ vào rừng kiếm thức ăn, nếu thấy cây cờ đòng có thể chặt về, làm sạch và ngâm ngoài khe suối hai ngày cho hết nhựa, sau đó đưa về đồ chín lên và vắt thành từng cục phát cho từng người trong gia đình để ăn thay cơm.
Hoa mướp đắng rừng, nhỏ và rất đắng, không ăn được. Loài hoa thuần khiết một màu trắng tinh, tượng trưng cho sự trinh trắng của người con gái. Vì vậy, hoa văn này thường được thêu và dệt lên khăn Piêu cho các cô gái trẻ.
Hoa văn này được làm theo hình của cái móc sắt mà người Thái dùng để treo cồng chiêng. Người Thái thường mang dàn cồng chiêng ra đánh khi có lễ hội. khi tụ họp uống rượu cần hay ngày đầu tiên có sấm chớp sau Tết dương lịch (phà hoọng). Loại móc kim loại được chạm khắc cẩn thận như thế này ít được dùng nhưng nhờ có các thợ dệt xưa mà hình ảnh của móc cồng chiêng cổ được lưu giữ trên vải.
Một loại quả quen thuộc trong bữa ăn của các gia đình người Thái. Mướp đắng đơm hoa kết trái vào mùa hè, quả mướp đắng ăn mát và tốt cho gan. Khác với mướp đắng rừng, người Thái trồng mướp đắng thành giàn trong vườn nhà. Các cô gái Thái đã chuyển thể thành một loại hoa văn rất phổ biến trên thổ cẩm của họ.
Ngày xưa trên đĩa thức ăn của người dân tộc Thái thường có loại hoa này. Các cụ nhìn thấy đẹp và sợ mất đi hoa văn đó nên đã thêu lại nó. Ngày nay loài hoa này dường như đã biến mất, không ai biết bông hoa boọc lé thật trông như thế nào, nhưng nhờ có họa tiết trên vải thổ cẩm mà người Thái vẫn gìn giữ được hình ảnh của loài hoa này.
Ngày xưa các thợ săn người Thái hay dùng cung tên để bắn các con vật hoặc để làm vũ khí. Họ hay lấy lá của cây kiến pứng để gắn vào phía sau cung tên giúp định vị. Cái tên Kiếng pứn (cây cung tên) cũng từ đó mà ra. Quả của cây này gần giống với quả dứa. Khi xưa, phụ nữ sau khi có con thường uống nước sắc từ quả này để không sinh nở thêm nữa.
Không chỉ là một loại cây quen thuộc trong bản của người Thái, ngọn dừa vươn lên cao vút với tán lá xò e rộng mà vẫn vững vàng trong mưa gió. Người Thái khâm phục sự vững vàng của cây dừa nên thêu hoa văn lá dừa.
Kết mây là một loại vỏ cây to ở trong rừng, người dân thường vào rừng hái măng đốn củi nhìn thấy các vỏ cây cổ thụ đẹp và về thêu lên bộ trang phục của mình.
Là loại quả thường chín vào tháng 8. Người dân trước đây đói khổ không có gạo ăn thường hái quả trám này về luộc ăn đỡ bữa. Người dệt thổ cẩm Thái đã thêu hình quả trám này lên trên trang phục của mình để tưởng nhớ món ăn đã cứu giúp mình trong những ngày cơ hàn. Hoa văn quả trám có rất nhiều dị bản, nhưng chủ yếu đều có các mô típ hình trám đồng tâm và điểm xuyết hoa văn nhỏ hơn ở giữa. Vì vậy, từ một loại quả tự nhiên đơn giản, người dệt thủ công dân tộc Thái đã biến thành một loại hoa văn độc đáo thể hiện sự khéo léo của bàn tay và trí tưởng tượng của trí óc.
Người Thái xây bản ở chân núi để tiện việc đồng áng ở cánh đồng và để nhà cửa cao hơn mặt nước. Đây là môi trường lý tưởng cho hoa sen mọc. Mỗi bản người Thái đều có ít nhất một ao sen. Vẻ đẹp dịu dàng và thanh thoát của hoa sen đã được lưu giữ không chỉ qua hoa văn thổ cẩm mà còn qua họa tiết trang trí trên trâm cài tóc bằng bạc của các cô gái Thái.
Có hai loại hoa văn con bướm: hoa văn nhiều màu và hoa văn đen trắng. Hoa văn con bướm màu đen trắng chỉ được dùng trong tang lễ. Vào mùa hè, các cô gái Thái đi làm ruộng hoặc đi rừng về dừng lại tắm ở suối, trông thấy các con bướm nhiều màu sắc bay lượn bên bờ suối. Tối về họ thêu các hình con bướm nhiều màu này vào chăn và màn của mình.
Theo truyền thống của người Thái, chỉ các loại hoa rừng mới được thêu lên khăn piêu đội đầu. Không được thêu con vật lên khăn piêu vì tổ tiên không cho đặt con vật lên đầu.
Ngày xưa, người Thái thường dùng lá Mi mọc trong rừng để buộc sợi làm hoa văn Ikat. Loại cây này có hoa rất đẹp. Người phụ nữ Thái thấy đẹp nên đã thêu lại hoa văn này lên trang phục và thổ cẩm của mình.
Chúng sở hữu bộ lông mượt mà và cái đuôi dài, khi xò e ra trông như chiếc váy lộng lẫy nhiều sắc màu đan xen rực rỡ. Ngày xưa, chim công là một loại chim khi được sinh ra được coi là một loại cao quý và xinh đẹp. Cho nên nó được người Thái ví như là một nàng công chúa nên hay gọi nó là “Nang Nhung”.
Mèo hiền lành, nhanh nhẹn, khôn ngoan, leo trèo giỏi và mắt rất tinh nhanh, đặc biệt là trong bóng đêm. Người chủ nuôi cưng chiều, chăm sóc vì nó là con vật có ích. Có mèo, tài sản của con người đỡ bị giống gặm nhấm tàn phá. Ngày xưa người Thái quan niệm con mèo là linh vật tượng trưng cho linh hồn của cha ông, tổ tiên của một số dòng tộc (như dòng tộc Lo Kăm). Cho nên người Thái mỗi khi thấy mèo chết thường hay giả khóc và nói câu (Cụ ơi…, cũng may là cụ chết thì chúng cháu mới được ăn thịt) để thể hiện một tín ngưỡng tôn trọng của mình.
Con Hổ được mệnh danh là chúa sơn lâm, tượng trưng cho loài vật có sức mạnh và hung dữ nhất, không con vật nào có thể dọa nạt được nó. Người Thái thêu con hổ lên chăn, hoặc chân váy để mong muốn mình và những người thân trogn gia đình tránh được những bệnh tật, ốm đau thông thường, và có một sức khỏe mạnh mẽ và dẻo dai như hổ.
Ngày xưa, khi thời tiết thay đổi, mỗi khi có mưa gió, con tắc kè kêu mừng là được uống nước. Cho nên, người Thái thêu con tắc kè để nhớ ơn nó báo thời tiết giúp cho người dân tránh được những cơn mưa bão.